Chú thích Quan_chế_nhà_Nguyễn

  1. 1 2 3 Trần Văn Tích. Sự muôn năm cũ. Toronto, Canada, 1992. Tr 170-87
  2. 1 2 Thời Gia Long có Tam thái, nhưng ít khi phong cho người còn sống, thường chỉ phong cho người đã qua đời. Quan chế Minh Mạng bãi bỏ chức này
  3. Lục bộ Tả Hữu Tham Tri - phần lớn các sách, bài viết đều không viết thêm 2 từ Tả Hữu vì các sách sử không nhắc đến trong chiếu chuẩn định năm 1804 thời Gia Long. Thật ra, theo Đại Nam thực lục quyển 1, năm 1793, chúa Nguyễn Ánh đã lệnh cho "Hàn lâm viện chế cáo Hoàng Minh Khánh làm Tả tham tri Hộ bộ"
  4. Tản giai là chức nhàn tản có tên quan nhưng không có việc làm, không phải là chính giai
  5. Trong Đại Nam thực lục và các bài viết khác ghi là "Cai bạ điển quân; Tham luận các biệt đạo" nhưng có lẽ không đúng vì chức Cai bạ điển quân đã được ở trật cao hơn là Tòng tứ phẩm, nên không thể lập lại ở Tòng ngũ phẩm này. Vì vậy có lẽ Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh đúng hơn khi ghi là "Cai bạ các biệt đạo, Điển quân tham luận"
  6. Theo Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, đây là 2 ty riêng gồm Cai hợp ty, Lệnh sử ty 6 bộ (trang 523 - Quan chế Gia Long). Điều này không đúng vì Cai hợp là một chức trong các ty, nên đây là Lục bộ Lệnh sử ty Cai hợp, chứ không phải là 2 cơ quan Cai hợp ty, Lệnh sử ty (không phải chức) được bang trật
  7. Trong Đại Nam thực lục và các bài viết khác, chức này được viết là "Tri án Cai hợp các thủ sở", chữ Tri Án có lẽ thêm vào và không đúng, chỉ có chức Cai hợp các thủ sở vì bên dưới trật Tòng bát phẩm có chức Thủ hợp các thủ sở chức không có Tri Án Thủ hợp các thủ sở
  8. Theo Đại Nam thực lục quyển 1 ghi là "bản ty ty Lệnh sử Y viện, Đồ gia" có lẽ muốn viết là Thái Y viện Lệnh sử ty Bản ty, Đồ gia Lệnh sử Ty Bản ty hơn là Y Viện Đồ Gia Lệnh sử Ty Bản ty vì Đồ gia không gồm đồ của Thái Y viện
  9. Theo Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, đây là chức Chư thủ hợp các thủ sở. E rằng đây là một cách viết nửa Hán nửa Quốc ngữ không đúng, chữ Chư không cần thiết. Thủ hợp các thủ sở đúng với cách viết chữ Quốc ngữ hơn, hoặc nếu viết tiếng Hán thì sẽ viết là Chư thủ sở thủ hợp
  10. 1 2 Theo Đại Nam thực lục quyển 1, Pháp lục, Đạo sĩ, Xá sai, Tướng thần lại là các ty tôn giáo, xem đoạn "Lại ra lệnh cho bốn dinh bãi bỏ những nhân viên ở hai ty Pháp lục và Đạo sĩ cho sung bổ và hai ty Xá sai và Tướng thần lại..."
  11. Tự thừa là chức quan coi giữ đền miếu. Nhiều bài viết Từ thừa là không đúng.
  12. Các bài viết, sách sử Việt dịch là Thủ hợp tại gia hoặc Thủ hợp ở nhà, nhưng triều Nguyễn không có các chức này, chỉ có chức Thủ hợp các cục tượng (cục tượng tức Nội tạo ty) (Tòng cửu phẩm), xem thêm Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, Thủ hợp trang 698
  13. Đồ gia Chánh quản cơ - cách sách phần lớn viết Chánh quản Đồ gia Cai cơ hoặc Đồ gia Chánh quản cai cơ. Chánh quản Cai cơ tức Chánh quản cơ
  14. Thủy dinh Phó Cai cơ - các sách phần lớn viết Cai cơ phó Thủy dinh, e đây là một sai lầm trong dịch thuật vì không có quân dinh nào với tên Phó Thủy dinh thời Gia Long. Còn nếu viết phó Thủy dinh Cai cơ đúng chữ Hán nhưng tối nghĩa khi đọc bằng chữ Quốc ngữ vì độc giả không hiểu là chức Cai cơ của đơn vị quân đội Phó Thủy dinh hay là chức phó Cai cơ của đơn vị quân đội Thủy dinh. Vì vậy, bài viết này chỉnh sửa lại là Thủy dinh Phó cai cơ, tương tự như chức Thị trung Phó Đô thống chế
  15. Chư quân Vệ úy - các sách phần lớn viết Vệ úy các dinh quân, e đây là một sai lầm trong dịch thuật vì Vệ úy các dinh tức 5 dinh Thần sách (hoặc Thần sách quân Vệ úy) đã thuộc trật Chánh tam phẩm, Vệ úy trật Tòng tam phẩm không thể lại là Thần sách quân Vệ úy, chỉ có thể là Vệ uy ở các đơn vị quân đội thấp hơn. Vì vậy, đây là các Chư quân Vệ úy tức Vệ úy các đơn vị quân đội thấp hơn Dinh quân, là Cơ quân hoặc Vệ quân (hoặc thấp hơn nữa) Vệ úy
  16. Thần sách Quản cơ - các sách phần lớn viết Cai cơ chánh chi các dinh quân. Tên này tối nghĩa, nên bài viết dùng tên Thần sách Quản cơ
  17. Tàu - tên một cấp bậc cơ quan như Ty, Tàu, v.v., không phải là Tàu như tàu thuyền
  18. Đồ gia Phó đội - có sách viết Đồ gia Phó Cai đội là không đúng vì chức Phó Cai đội là Phó đội
  19. 1 2 Trường đà - là tên một đội thuyền thời Nguyễn, như đội Trường đà. Trường đà nghĩa là thuyền có bánh lái dài. Theo Đại Nam thực lục quyển 01 trang 182, "...Mùa thu, tháng 7, sai các quân đóng binh thuyền. Đỗ Thanh Nhân sai thủy quân lấy thứ gỗ nam [kiền kiền] để đóng thuyền trường đà [bánh lái dài], trên gác sàn chiến đấu, hai bên dựng phên tre che thủy binh ở dưới để cho chuyên sức mà chèo, còn trên thì bày bộ binh để xung trận mà đánh. Do đó đi đường biển thuận lợi mà nghề thủy quân sở trường càng tinh thêm.."
  20. Ngoại trù - là một đội, tức một đơn vị quân đội trong kinh kỳ, gồm nhiều thuyền, khoảng 200 - 500 lính. Xem Đại Nam thực lục, quyển 01, trang 691 "... Năm Gia Long 5 (1806), các đội của đội Tiểu sai, đội Thị trà, đội Loan nghi, ba đội Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, mười đội của vệ Chấn dực Nội thủy, ba vệ Thị tượng, các đội Nội mã, Tả mã, Hữu mã, Tư thiện, Thị hành, Thị nội, Trung cần thị nội, Nội cần thị nội, Nội sai, Ngoại trù..."
  21. Từ đường - là một đơn vị sở tuần bên sông, theo Đại Nam thực lục quyển 01 trang 99 "...Tân tỵ, năm thứ 10 [1701]...Quân thủy bộ dinh Bố Chính chia đặt 36 sở tuần từ đường Phong Nha men sông và Đại Thành đến lũy Trấn Ninh: 3 thuyền Đột tam, Tiên trụ và Nhuệ súng thuộc đội Tuần bộ, đội Tả hùng, đội Tiền thắng, 3 thuyền Hữu súng..."
  22. Thuộc kiên - là tổ chức đơn vị quân sự thuyền thời Nguyễn. Thuyền gồm khoảng từ 30 - 100 lính.
  23. Thủ ngự cửa ải - Quan chỉ huy các đồn ải, phòng thủ bên biên giới hải đảo (xem Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, 2002 trang 700 mục 1435. Thủ ngự)
  24. Thủ ngự bả lệnh - Quan giữ việc lọng, dù (xem Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, 2002 trang 700 mục 1435. Thủ ngự)
  25. Thiêm sự - năm Minh Mạng 8 (1827) mùa đông tháng 11, đổi chức Thiêm sự các nha sáu bộ làm Lang trung (theo Đại Nam thực lục tập 02 trang 659)
  26. Năm Minh Mạng 12 (1831), chức Hiệp trấn được đổi thành chức Bố chính sứ
  27. Thiếu thiêm sự - năm Minh Mạng 8 (1827) mùa đông tháng 11, đổi chức Thiêm sự các nha sáu bộ làm Lang trung (theo Đại Nam thực lục tập 02 trang 659). Vì vậy, có lẽ chức Thiếu thiêm sự là cấp phó Thiêm sự, được đổi thành Viên ngoại lang, tức chức phó Lang trung
  28. Năm Minh Mạng 12 (1831), chức Tham hiệp được đổi thành chức Án sát sứ
  29. Tôn Nhân phủ Tả Hữu Tá lý - được ban Chánh tứ phẩm vào năm Minh Mạng 17 (1836) (Đại Nam thực lục, tập 04 trang 1157)
  30. Khâm thiên giám Chiêm hậu trật Tòng ngũ phẩm đến năm Minh Mạng 8 (1827), khi vua Minh Mạng lệnh bỏ chức này, thay bằng chức Ngũ quan chính và định trật mới là Chánh lục phẩm
  31. Kinh huyện tri huyện là chức tri huyện tại kinh kỳ, khác với Tri huyện là chức tri huyện tại các huyện khác trên toàn quốc
  32. Khinh kỵ Tri bạ - theo Đại Nam thực lục, tập 2, chức này gọi là Kiên kỵ. Có lẽ dịch sai.
  33. Theo Đại Nam thực lục tập 02 trang 636 viết về việc phẩm định quan giai năm 1827 thời Minh Mạng, đã đưa Thần sách Tri bạ vào trật Chánh lục phẩm. E rằng đây là một sai lầm vì ngay tại trật Tòng lục phẩm có chư quân Tri bạ, mà chư quân đây chính là năm dinh Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu quân Thần sách nên lại đưa thêm Thần sách Tri bạ vào Chánh lục phẩm không đúng. Vả lại, theo Đại Nam thực lục tập 02 trang 595 ghi rõ " ... Bắt đầu đặt hai vệ Kiêu kỵ, Phi kỵ... đều thuộc viện Thượng tứ, cấp bậc cũng như quân Thị nội... ", không hề ghi về Tri bạ tại các quân dinh Thần sách được trật Chánh lục phẩm như Khinh kỵ Tri bạ và Phiêu kỵ Tri bạ
  34. Kinh huyện Huyện thừa - Giáp thân, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), đặt thêm chức Huyện thừa ở kinh huyện, trật Tòng lục phẩm (theo Đại Nam thực lục, tập 02 trang 359
  35. Chư quân - tất quân 5 dinh Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu quân Thần sách
  36. Thân công phủ Chủ bạ - theo Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, 2002, chức Chủ bạ đã bị bãi bỏ từ thời Hồng Đức nhưng đây là một ngộ nhận (xem Đại Nam thực lục tập 02 hoặc tập 03) có rất nhiều đoạn viết về chức Chủ bạ thời Nguyễn. Chủ bạ là chức coi giữ sổ sách. Lưu ý trong Đại Nam thực lục tập 03 trang 1094 có đoạn vào năm Minh Mạng 14 (1833) "Văn miếu: Tự thừa đốc suất lễ sinh thừa hành mọi việc tế tự. Các tự thừa, lễ sinh và chủ bạ ở các tỉnh theo người quản lĩnh coi giữ sổ sách.". Không hiểu các chủ bạ ở tỉnh có cùng trật với Thân công phủ Chủ bạ không? Hay là Chủ bạ trong việc phong chức này là tất cả Chủ bạ, chứ không chỉ Thân công phủ Chủ bạ ?
  37. Văn miếu Tự thừa tại Kinh sư - tức chức Tự thừa tại Văn miếu thuộc Kinh sư (phủ Thừa Thiên). Ngoài Văn miếu tại Kinh sư, còn có các Văn miếu tại các thành, trấn, đạo, tỉnh khác
  38. Tượng y ty không có chức Tượng y chính, chỉ có chức Tượng y phó (Đại Nam thực lục, tập 3)
  39. Những thư lại chưa xếp vào ngạch bậc vì chưa qua thi tuyển. Nếu thi đạt sẽ được phong phẩm hàm
  40. Ngũ quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự - còn được biết qua tên là Ngũ quân Đô thống phủ Đô thống Chưởng phủ sự - lập vào năm 1832 (xem Đại Nam thực lục quyển 03 trang 432 đoạn "...Bắt đầu đặt chức Ngũ quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự...". Nếu vậy, từ 1804 đến 1832, chức này có lẽ vẫn dùng tên chức thời Gia Long là Chưởng quân Chưởng phủ sự. Tuy nhiên, tên chức này ít được dùng, tên thường dùng là Chưởng Tả quân, Chưởng Hữu quân, v.v. Theo Đại Nam thực lục quyển 02 trang 639, chép về việc chuẩn định quan chế năm 1827 "Võ giai: Chánh nhất phẩm: Chư quân Đô thống phủ, Chưởng phủ sự,". Chưa tìm thấy dữ liệu về việc Đô thống phủ đã xuất hiện trước hoặc vào năm 1827 như câu chép trên. Chức Đô thống như Đô thống chế thì đã có trước năm 1827 ví dụ như trong Đại Nam thực lục quyển 01 trang 448 "năm Gia Long 1 (1802)... Cho Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách là Lê Văn Duyệt làm Khâm sai chưởng Tả quân bình Tây tướng quân", nhưng Đô thống phủ thì không thấy được nhắc đến trước hoặc vào năm 1827. Không hiểu đây là dịch thêm hay viết sai hay thật sự đã có Đô thống phủ vào năm 1827, rồi đến năm 1832, triều đình lập Ngũ quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự dựa trên Đô thống phủ Chưởng phủ sự đã có từ năm 1827.
  41. Ngũ quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự - theo Đại Nam thực lục quyển 03 trang 432 "...Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], mùa thu, tháng 9... Bắt đầu đặt chức Ngũ quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự...Dùng Chưởng doanh, thự Tiền quân ấn vụ là Trần Văn Năng làm Tiền quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự, vẫn kiêm coi quản ấn triện vệ Kinh tượng cùng Hoa danh sách và giáo dưỡng binh. Thự trung quân ấn vụ là Tống Phước Lương làm Trung quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự. Đô thống chế, thự Hậu quân ấn vụ là Phan Văn Thuý, thăng thự Hậu quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự. Đô thống lĩnh Tổng đốc Hà Ninh là Nguyễn Văn Hiếu, thăng thự Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự. Hữu quân Phó tướng, gia hàm Đô thống là Nguyễn Văn Xuân, thực thụ Đô thống, thự Hữu quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự.Ra lệnh cho chế cấp ấn quan phòng bằng bạc cho Ngũ quân Đô thống phủ, mỗi phủ một cái."
  42. Ngũ quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự - là tên gọi chung. Khi viết về chức của riêng từng vị quan giữ chức này, thường viết với tên quân mà vị quan điều hành. Ví dụ, Trung quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự, Tiền quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự, Hậu quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự, Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự, Hữu quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự
  43. Đô thống - bao gồm Ngũ quân Đô thống phủ Đô thống, Thị nội Thần cơ dinh Đô thống, Thị nội Tiền phong dinh Đô thống, Thị nội Long võ dinh Đô thống, Thị nội Hổ oai dinh Đô thống, Thần sách ngũ dinh Đô thống. Lưu ý, thời này đã không còn chức Thị trung Đô thống chế
  44. Thần sách Đô thống chế - chức này không được chép trong các sách, và vài bài viết cho rằng chức đã bị xóa sau Quan chế Minh Mạng năm 1827. Tuy nhiên, trong bộ Đại Nam thực lục, chức Đô thống chế vẫn còn được áp dụng sau cuộc quan chế Minh Mạng năm 1827, ít nhất là 1 hoặc 2 năm sau năm 1827. Ví dụ, theo Đại Nam thực lục quyển 02 trang 752 "...Năm Minh Mạng 9 (1828)... Lấy Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách Nguyễn Văn Hiếu làm Đô thống, vẫn lĩnh Trấn thủ Nghệ An, Đề đốc Kinh thành là Nguyễn Văn Phượng làm thự Thống chế Tả dinh quân Thần sách, vẫn kiêm lĩnh Đề đốc kinh thành quản lý việc phủ Thừa Thiên...."
  45. Tại sao chỉ đưa Thần sách Đô thống chế mà không đưa hết tất cả Đô thống chế ví dụ Thị trung Đô thống chế? Vì khi dò trong Đại Nam thực lục sau 1827, tất cả các chức Đô thống chế còn lại đều thuộc Thần sách quân (như Tả doanh, Hữu doanh, v.v). Vả lại, theo Quan chế Gia Long, Thị trung Đô thống chế trật cao hơn Thần sách Đô thống chế. Có lẽ vào năm 1827, triều đình đã xóa bỏ chức Thị trung Đô thống chế và chỉ áp dụng chức Thần sách Đô thống chế trong một thời gian không lâu sau năm 1827 rồi đổi tất cả sang hệ thống Ngũ quân Đô thống phủ vào năm 1832, dùng chức Đô thống thay thế cho Đô thống chế.
  46. Thống chế - bao gồm Thống chế tại tức cả quân dinh, trong đó có Thị trung Tả Hữu dực Thống chế; Thị nội Thần cơ dinh Thống chế; Thị nội Tiền phong dinh Thống chế; Thị nội Long võ dinh Thống chế; Thị nội Hổ oai dinh Thống chế; Thần sách ngũ quân Thống chế; Chư quân Thống chế;
  47.  Thần sách Phó Đô thống chế - chức này không được chép trong các sách, và vài bài viết cho rằng chức đã bị xóa sau Quan chế Minh Mạng năm 1827. Tuy nhiên, trong bộ Đại Nam thực lục, chức Phó Đô thống chế vẫn còn được áp dụng sau cuộc quan chế Minh Mạng năm 1827, ít nhất là đến năm 1831, 1 năm trước cuộc cải tổ hành chính năm 1832. Ví dụ, theo Đại Nam thực lục quyển 02 trang 752 "...Năm Minh Mạng 12 (1831)... Cho Đô thống Nguyễn Văn Hiếu làm Đô thống Trung doanh quân Thần sách vẫn lĩnh chức Trấn thủ Nghệ An, Phó đô Thống chế Trung doanh là Đoàn Văn Trường làm Thống chế Hữu dinh..."
  48.  Tại sao chỉ đưa Thần sách Phó Đô thống chế mà không đưa hết tất cả Đô thống chế ví dụ Thị trung Phó Đô thống chế? Vì khi dò trong Đại Nam thực lục sau 1827, tất cả các chức Phó Đô thống chế còn lại đều thuộc Thần sách quân (như Tả doanh, Hữu doanh, v.v). Vả lại, theo Quan chế Minh Mạng, Thị trung được chuẩn định dùng chức Thống chế từ năm 1827, nên có lẽ sau 1827 đã không còn chức Thị trung Phó Đô thống chế nữa.
  49. 1 2 Đề đốc - đây là chức Đề đốc thường được biết như các Đề đốc điều hành binh lính tại dinh hoặc tỉnh. Về trật phẩm, theo Đại Nam thực lục quyển 04 trang 1162 đoạn "...Định lại: trật Đề đốc là Chánh nhị phẩm (trước: Tòng nhị phẩm). Chuẩn cho: Đề đốc Kinh thành là Nguyễn Văn Mỹ, Đề đốc Hà - Ninh là Hoàng Văn An đều do nguyên hàm Tòng nhị phẩm, được thăng thự..."
  50. Kinh thành Đề đốc - vốn được đặt vào năm Minh Mạng 4 (năm 1823) trật Chánh tam phẩm (xem Đại Nam thực lục quyển 02 trang 245 đoạn "...Bắt đầu đặt các chức Đề đốc Kinh thành..."), thăng trật Tòng nhị phẩm trong cuộc chuẩn định quan chế năm 1827 (xem Đại Nam thực lục quyển 02 trang 639 đoạn "Tòng nhị phẩm: Cẩm y Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Cẩm y Chưởng vệ sự, Kinh thành Đề đốc", thăng trật Chánh nhị phẩm năm Minh Mạng 17 (năm 1836) (xem Đại Nam thực lục quyển 02 trang 1162 đoạn "...Định lại: trật Đề đốc là Chánh nhị phẩm (trước: Tòng nhị phẩm). Chuẩn cho: Đề đốc Kinh thành là Nguyễn Văn Mỹ, Đề đốc Hà - Ninh là Hoàng Văn An đều do nguyên hàm Tòng nhị phẩm, được thăng thự..."
  51. Thủy sư Đề đốc - theo Đại Nam thực lục quyển 04 trang 874 đoạn "Ất Mùi, Minh Mệnh năm thứ 16 [1835], mùa thu, tháng 9... Bắt đầu đặt chức Đề đốc Thuỷ sư, trật Chánh nhị phẩm..."
  52. 1 2 Chưởng cơ / Chưởng vệ - năm Minh Mạng 17 (1836), đổi Chưởng cơ làm Chưởng vệ (Đại Nam thực lục, tập 04 trang 1150)
  53. Phó Đề đốc - trật Tòng nhị phẩm này được trích từ Từ điển nhà Nguyễn, Võ Hương An trang 114 Cửu Phẩm Văn Giai
  54. Cẩm y vệ Vệ úy - do Thân binh Vệ úy bao gồm Cẩm y vệ Vệ úy. Đưa chức Cẩm y vệ Vệ úy vào kế bên Cẩm y vệ Phó sứ để độc giả biết Cẩm y vệ Phó sứ và Cẩm y vệ Vệ uy đều có trật ngang nhau
  55. 1 2 Thân binh Vệ úy / Cấm binh Vệ úy thuộc Chánh tam phẩm - không có trong Đại Nam thực lục, có trong Từ điển nhà Nguyễn, Võ Hương An trang 115 Cửu phẩm Quan Giai
  56. Thân binh - binh tại Kinh đô gồm Thân binh (hộ vệ vua), Cấm binh (phòng thủ hoàng thành), Kinh binh trong đó Thân binh gồm có doanh Vũ Lâm, và các vệ Cẩm Y, Kim Ngô, Loan Giá, Tuyền Phong (theo Từ điển nhà Nguyễn, Võ Hương An trang 517 quân hiệu)
  57. Cấm binh - binh tại Kinh đô gồm Thân binh (hộ vệ vua), Cấm binh (phòng thủ hoàng thành), Kinh binh trong đó Cấm binh gồm có doanh Thần cơ, Tiền phong, Long Võ, Hổ Oai, Hùng Nhuệ, Kỳ Võ; các vệ Kinh Tượng, Long Thuyền, Võng Thánh; các viện Thượng Tứ, Thượng Trà, Võ Bị; các đội Tư Pháo, Tài Thụ, Giáo Dưỡng, Thượng Thiện, Phụng Thiện; các ty Tả, Hữu Tử Tế (theo Từ điển nhà Nguyễn, Võ Hương An trang 517 quân hiệu)
  58. 1 2 Lãnh binh / Phó Lãnh binh - Theo Đại Nam thực lục, quyển 04 trang 980 đoạn "...Ất Mùi, Minh Mệnh năm thứ 16 [1835]... 2 Lãnh binh quan thành Trấn Tây, đều trật Chánh tam phẩm, 2 Phó lãnh binh quan đều trật Tòng tam phẩm..."
  59. Theo các sách sử, Võ giai Tòng tam phẩm còn có các chức Chư quân Vệ úy; Ngũ hộ Vệ úy. Tuy nhiên, cách sách sử không đưa ra ví dụ Chư quân Vệ úy là gồm các quân nào vì Thị trung, Thần sách, Thị nội và các ty vệ khác đều đã được đưa ra trong các phẩm trật trên hoặc trong Tòng tam phẩm. Ngoài ra, không hiểu Ngũ hộ Vệ úy nghĩa là thuộc đơn vị nào. Vì vậy, người viết đem Chư quân Vệ úy; Ngũ hộ Vệ úy vẫn được đưa vào đây để nếu độc giả nào có dữ liệu, chú thích nguồn để các độc giả khác có thể tra khảo thêm
  60. Theo các sách sử, Võ giai Chánh tứ phẩm còn có các chức Chư quân Phó Vệ úy; Ngũ hộ Phó Vệ úy. Tuy nhiên, các sách sử không đưa ra ví dụ Phó Vệ úy các quân là gồm các quân nào vì Thị trung, Thần sách, Thị nội và các ty vệ khác đều đã được đưa ra trong các phẩm trật trên hoặc trong Chánh tứ phẩm. Ngoài ra, không hiểu Ngũ hộ Phó Vệ úy nghĩa là thuộc đơn vị nào. Vì vậy, người viết vẫn đưa Chư quân Phó Vệ úy; Ngũ hộ Phó Vệ úy vào đây để nếu độc giả nào có dữ liệu, chú thích nguồn để các độc giả khác có thể tra khảo thêm
  61. Theo Đại Nam thực lục, tập 02 trang 540 đoạn "Bắt đầu định hàm và thuỵ phong tặng cho quan viên văn võ..."
  62. 1 2 3 Thay đổi triều Tự Đức, năm thứ 27 (1874)
  63.  Theo Đại Nam thực lục, tập 05 trang 803 đoạn "Vua nghĩ khánh tiết đã xuống ân chiếu phong tặng cho cha mẹ quan viên..."
  64. Theo Đại Nam thực lục, quyển 02, Cụ ông quan Chánh nhất phẩm được phong hàm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ. Đây có lẽ là dịch sai hoặc viết sai vì chức Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ thuộc trật Tòng tứ phẩm, nên nếu đây đúng là chức cho Cụ ông, thì Cụ bà không thể được phong trật Chánh tứ phẩm Cung nhân mà phải là trật Tòng tứ phẩm Cung nhân. Vả lại, Cụ ông của quan Tòng nhị phẩm lại được phong là Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, nên chắc chắn chức của Cụ ông quan Chánh nhất phẩm cần cao hơn chức của Cụ ông quan Tòng nhị phẩm. Vì vậy, chức của Cụ ông quan Chánh nhất phẩm phải là Hàn lâm viện Thị độc học sĩ (trật Chánh tứ phẩm), chứ không phải là Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ (trật Tòng tứ phẩm), xứng với chức Cụ bà của quan Chánh nhất phẩm được phong trật Chánh tứ phẩm Cung nhân
  65. Theo Đại Nam thực lục, quyển 02, Mẹ quan Tòng tam phẩm được phong trật là Tòng ngũ phẩm Nghi nhân. Đây có lẽ là dịch sai hoặc viết sai vì Cha quan Tòng tam phẩm được phong hàm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, trật Tòng tứ phẩm, thì Mẹ quan Tòng tam phẩm đáng lẽ có trật được phong là Tòng tứ phẩm Cung nhân, chứ không thể nào có trật Tòng ngũ phẩm Nghi nhân (là trật được phong cho Mẹ quan Tòng tứ phẩm tức quan thấp hơn 2 trật) được
  66. Theo Đại Nam thực lục, quyển 02, cha Quan chánh nhị phẩm Võ giai được phong là Cẩm vệ y Chưởng vệ sự e là không đúng. Chỉ có Cẩm Y vệ thời Nguyễn, chứ không có Cẩm Vệ Y. Vì vậy, chức này là Cẩm Y Chưởng vệ sự, chứ không phải là Cẩm Vệ Y Chưởng v sự
  67. Nguyễn Thế Anh 2008, tr. 48Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNguyễn_Thế_Anh2008 (trợ giúp)
  68. “Nhìn nhận lại vương triều Nguyễn: Cần khách quan với lịch sử”. 20/10/2008. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |piblisher= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày tháng= (trợ giúp)
  69. Nguyễn Thế Anh 2008, tr. 65–66Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNguyễn_Thế_Anh2008 (trợ giúp)